21 tháng 4, 2014

Biển của ngày đã mất (Gabriel García Márquez)

 
                        
Càng về cuối tháng Giêng, biển càng ầm ì tợn. Nó bắt đầu đổ thức rác rến nặng nề của mình lên thị trấn, và chỉ trong vài tuần mà cái trạng thái không thể chịu đựng được đó làm ô nhiễm tất cả mọi thứ. Rồi từ đó trở đi, sẽ như thể chẳng đáng để sống trên đời này nữa, ít nhất là cho đến tháng Chạp, vậy nên không ai tỉnh giấc sau 8 giờ. Nhưng vào cái năm ngài Herbert đến đây, biển không thay đổi, dù lúc đó đã là tháng hai. Ngược lại, biển êm đềm, lấp lánh và suốt những đêm đầu tháng Ba, biển tỏa mùi hương của những bông hồng.

Tobias đã cảm nhận được mùi hương đó. Máu anh thu hút những con cua đất đến nỗi mất cả nửa giấc ngủ để đuổi chúng khỏi giường cho đến khi gió ùa vào và anh có thể ngủ tiếp. Suốt những thời kỳ dài mất ngủ, anh đã quen với việc nhận ra những biến chuyển trong không khí. Khi phát hiện ra mùi hương của những bông hồng, không cần mở cửa sổ anh cũng biết đó là mùi từ biển. 
Anh dậy trễ. Clotilde đang nhóm lửa trong sân. Gió mát rượi và tất cả các ngôi sao điểm rõ trên bầu trời, nhưng những ngọn đèn trên biển làm khó mà đếm được các ngôi sao về phía cuối chân trời. Uống cà-phê xong nhưng Tobias vẫn còn nếm rõ dư vị của đêm tối trên đầu lưỡi.
Nhớ lại, anh nói “Có gì đó rất lạ đã xảy ra đêm qua.”
Clotilde, hẳn nhiên là, đã không ngửi thấy gì. Cô ngủ mệt nhọc đến nỗi thậm chí không thể nhớ được những giấc mơ của mình.
Tobias nói “Đó là mùi của những bông hồng, và anh chắc chắn nó đến từ biển.”
Clotilde nói “Em không biết những bông hồng có mùi thế nào cả.”
Có lẽ cô nói đúng. Thị trấn này đã khô hạn, đất đai cằn cỗi và nứt nẻ do tiêu thạch[i] và hiếm hoi lắm thì người ta mới thả một bó hoa mua được từ bên ngoài vùng đất này xuống biển, nơi những xác chết được thả trôi.
Tobias nói “Đó là mùi bốc ra từ gã chết đuối đến từ Guacamayal.”
“Ồ”, Clotilde nói trong khi mỉm cười “Nếu đó là một mùi thơm, thì anh có thể chắc mẩm rằng nó không phải là từ biển đâu.”
Đúng là một vùng biển độc địa. Đã có những lúc người ta kéo lưới mà chẳng được gì ngoài rác lềnh bềnh, và những con đường trong thị trấn đầy cá chết sau cơn thủy triều, còn thuốc nổ thì chỉ mang về những mảnh tàu vỡ cũ kỹ.
Giống như Clotilde, một số ít những người phụ nữ còn ở lại thị trấn này sống quằn quại trong khổ sở. Trong số đó là vợ của lão Jacob, sáng hôm ấy bà Petra dậy sớm hơn bình thường, dọn dẹp nhà cửa và ngồi xuống ăn sáng, vẻ ngoài khắc khổ.
“Mơ ước cuối cùng của tôi”, bà nói với chồng, “là được chôn sống.”

Bà nói như thể đang ở trên giường chờ chết, dù đang ngồi ở bàn ăn; ánh sáng của tháng Ba ùa vào phòng ăn và trải ra khắp nhà. Ngược với bà, kìm nén cơn đói nhã nhặn của mình, lão Jacob, người đã yêu vợ mình nhiều và lâu đến mức ông không còn hình dung ra được vợ ông còn có những đau khổ nào khác.
“Tôi muốn được chết với sự đảm bảo rằng tôi sẽ được nằm dưới lòng đất đúng nghĩa như một con người”. Bà nói tiếp, “Và cách duy nhất để chắc chắn điều đó là đi quanh đây nhờ người ta làm phước chôn sống tôi.”
“Bà không cần phải nhờ ai cả.” Jacob từ tốn “Tự tôi sẽ để chôn bà ở đó.”
“Vậy đi thôi.” Bà nói, “Vì tôi đã định chết từ lâu lắm rồi.”
Lão nhìn bà chăm chú. Bà chỉ có đôi mắt là trông vẫn còn trẻ. Xương xẩu gồ lên ở những khớp, trông bà như một cánh đồng được cày xới.
“Bà trông có vẻ sẵn sàng hơn lúc nào hết.” Lão nói với vợ.
“Đêm qua, tôi bắt gặp mùi hương của những bông hồng.” Bà thở dài.
“Đừng để ý làm gì.” Jacob nói, và để chắc chắn, “Những thứ như thế luôn xảy đến với những người nghèo như chúng ta.”
“Không phải kiểu như thế đâu.” Bà nói “Tôi đã luôn cầu nguyện rằng tôi sẽ được biết trước khi nào tôi chết đủ thời gian để có thể được chết ở xa cái biển này. Và mùi hoa hồng như thế trong cái thị trấn này chỉ có thể là thông điệp của Chúa.”
Tất cả những gì Jacob có thể nghĩ đến là đề nghị chút thời gian để sắp xếp mọi thứ. Lão từng nghe kể rằng người ta không chết khi người ta phải chết, mà là khi người ta muốn chết, và dự cảm của bà khiến lão thật sự lo lắng. Lão thậm chí thắc mắc liệu mình có thể đủ sức đối mặt với việc chôn sống bà khi khoảnh khắc đó tới.
 Chín giờ, lão mở cửa chỗ đã từng là một cửa hiệu. Lão đặt hai cái ghế và một cái bàn nhỏ với một cái bàn cờ bên trên ra trước cửa, rồi chơi cờ cả buổi sáng với những đối thủ tình cờ đi ngang. Từ nhà mình, lão ngắm nhìn thị trấn tồi tàn, đúng hơn là ngắm nhìn sự hỗn mang của nó với vết tích của những mảng màu xưa cũ bị mặt trời làm bong tróc dần và một dải biển ở cuối con đường.

Trước bữa trưa, như thường lệ, lão chơi với Don Máximo Gómez. Jacob chẳng thể nào tưởng tượng ra còn có đối thủ nào nhân từ hơn một người đàn ông đã sống sót qua hai cuộc nội chiến và mất một mắt trong trận thứ ba. Sau khi cố tình thua một ván, lão bắt Don ở lại chơi thêm ván nữa.

“Nói nè, Don Máximo”, lão hỏi, “Anh có thể chôn sống vợ tôi không?”

“Hẳn rồi,” Don Máximo Gómez trả lời “Lão cứ việc tin tôi nếu tôi nói là tay không run lập cập.”
Jacob bỗng lặng thinh. Rồi sau khi để mình mất những quân cờ tốt nhất, ông thở dài và nói “Có vẻ như Petra sắp chết.”

Don Máximo Gómez không thay đổi sắc mặt. “Trong trường hợp đó,” anh nói “không có lí do gì để chôn sống bà ấy.” Anh chiếm nhanh hai quân và chiếu tướng, rồi nhìn trân trân đối thủ bằng đôi mắt ngân ngấn ướt.


“Bà ấy bị gì vậy?”

“Tối qua,”, Jacob diễn tả, “bà ấy ngửi thấy mùi hoa hồng.”
“Nếu vậy thì hết nửa thị trấn này sắp chết,” Don Máximo Gómez nói. “Đó là tất cả những gì người ta đã bàn tán sáng nay.”
Jacob khó có thể cố tình thua lần nữa mà không làm Don Máximo bực mình. Lão mang bàn ghế vào trong, đóng cửa hiệu rồi đi loanh quanh xem ai đã nghe thấy cái mùi ấy. Cuối cùng, chỉ có Tobias là chắc chắn. Vì vậy, lão nhờ anh ghé qua nhà để nói cho vợ lão biết điều đó.
Tobias làm theo yêu cầu. Bốn giờ chiều, diện bộ áo ngày chủ nhật tươm tất nhất, anh xuất hiện dưới mái hiên, chỗ bà vợ của Jacob ngồi cả buổi chiều để ghép bộ đồ tang cho Jacob góa vợ. Anh bước đến nhẹ nhàng khiến bà giật bắn mình.

“Chúa ơi!” bà thán lên “Tôi cứ nghĩ là Archangel Gabriel[ii] cơ đấy.”
“Ồ, bà thấy là không phải rồi còn gì”, Tobias nói “Là tôi thôi, tôi đến để kể chuyện này với bà.”
Bà sửa lại kính và tiếp tục với việc của mình.
“Tôi biết anh định nói gì rồi.”, bà nói.
“Tôi cá là bà không biết đâu.” Tobias nói.
“Tối qua cậu nghe thấy mùi hoa hồng.”
“Làm sao bà biết?” Tobias hỏi chưng hửng.
“Ở tuổi của tôi,” người phụ nữ nói “đã có quá nhiều thời gian bị phí phạm để nghĩ rằng ai đó có thể trở thành một sứ giả hoàn hảo.
Lão Jacob, đang ghé tai vào vách tường ngăn sau cửa hiệu, đứng dậy có chút gì gượng gạo. “Thấy chưa, nàng ơi!” lão la lên xuyên qua bức tường, rồi đi ra phía hiên. “Rốt cuộc thì không phải như nàng đã nghĩ đâu nhé.”
“Người bạn hữu này đang nói dối.” bà nói mà không thèm ngẩng mặt lên. “Anh ta chẳng ngửi thấy gì cả.”
“Lúc đó khoảng 11 giờ.” Tobias nói “Lúc đó tôi đang đuổi những con cua.”
Bà sửa xong cái cổ áo. “Nói dối”, bà khăng khăng. “Ai cũng biết là anh đang lừa tôi.” Bà đưa răng cắn chỉ, rồi nhìn Tobias qua cặp kính. “Điều làm tôi không hiểu nổi là tại sao anh cố công xịt Vaseline lên tóc rồi là lượt đến đây chỉ để cư xử bất kính với tôi.”
Từ lúc đó, Tobias bắt đầu không ngừng quan sát biển. Anh treo võng chỗ mái hiên trước sân và trải qua những đêm đợi chờ, ngỡ ngàng bởi những tiếp diễn trong thế giới mà người ta đang gà gật. Nhiều đêm, anh nghe thấy tiếng những con cua bò loằng ngoằng lên cột nhà cho đến khi mệt lử sau nhiều lần cố gắng. Anh còn biết rõ cả cách Clotilde thở như thế nào trong khi ngủ. Anh nhận ra là những tiếng ngáy của cô càng lúc càng the thé khi cái nóng ngày một trở nên gay gắt, và rồi cuối cùng trở thành những nốt đơn lẻ, lê thê trong những ngày tháng bảy uể oải.
Lúc đầu, Tobias quan sát biển theo cách của một người biết rõ về nó với ánh nhìn đăm đăm cố định vào một điểm đơn lẻ của chân trời. Anh xem nó đổi màu, từ những tia sáng rồi sủi bọt, đục ngầu và thốc lên những cơn ợ hơi bực tức khi những cơn mưa lớn khuấy động sự tiêu hóa của nó. Từng chút một, anh biết ngắm nhìn nó theo cách của một người biết rõ hơn về nó – không nhìn vào nhưng không thể quên được ngay cả trong giấc ngủ.
Vợ lão Jacob chết vào tháng Tám. Bà chết khi đang ngủ, và họ thả trôi bà, như mọi người khác, vào biển, không hoa. Tobias chờ đợi mãi. Anh đã chờ lâu đến nỗi tâm trạng đó trở thành trạng thái thường nhật của anh. Một đêm khi anh đang chợp mắt trên võng, anh nhận ra có gì đó trong không khí đã đổi khác. Những đợt mùi khi phảng phất lúc ngập ngụa làm anh nhớ đến thời điểm một con tàu Nhật đổ một kiện hàng toàn hành tây hỏng xuống cửa cảng. Lúc đó mùi cứ nồng nặc và lưu cữ, không dịch chuyển, mãi cho đến khi bình minh. Cho đến khi ngửi rõ cái mùi đó như nắm chắc trong tay một vật gì và có thể xòe ra để khoe, Tobias mới nhảy bật khỏi võng rồi đi vào phòng Clotilde. Anh lắc cô nhiều lần.
“Nó đây này.”
Cô xua cái mùi ấy ra xa như vén màn để thức dậy rồi buông mình trở lại cái chăn ấm.
“Chúa nguyền rủa nó.” Cô nói.
Tobias chồm về phía cửa, chạy vào giữa con đường và bắt đầu la hét. Anh la hết sức có thể, hít thở sâu, rồi la tiếp, rồi bỗng im bặt, rồi anh lại hít một hơi sâu, mùi vẫn còn trên biển. Nhưng không một ai đáp lời. Anh đi từ nhà này qua nhà khác, gõ cửa, cả những nhà bỏ hoang, cho đến khi sự huyên náo của anh nhập với tiếng chó sủa làm mọi người thức giấc.
Nhiều người không thể ngửi thấy nó. Nhưng số khác, đặc biệt là những người già, đi xuống về phía biển để tận hưởng nó. Đó là mùi hương dễ chịu tinh tế không thể lẫn lộn với bất cứ mùi nào khác trong quá khứ. Một vài người ngửi đến thỏa thê rồi trở về nhà của họ. Hầu hết mọi người ngủ tiếp giấc dở dang ngay trên bãi biển. Mãi đến tận bình mình, mùi hương đó thật trong lành, đến nỗi chỉ ngửi thôi cũng thấy tiếc.
Tobias ngủ cả ngày. Clotilde bắt kịp anh vào giờ ngủ trưa, cả buổi chiều họ giỡn trên giường mà thậm chí không đóng cửa ra vào. Đầu tiên, họ trông như những con giun đất, rồi như những con thỏ và cuối cùng thì trông như những con rùa, cho đến khi mặt đất buồn đi và trời tối trở lại. Vẫn còn dư vị của những bông hồng trong không khí. Thỉnh thoảng lại nghe chạm vào phòng ngủ một khúc nhạc.
“Là nhạc từ quán của Catarino” Clotilde nói, “Ai đó chắc hẳn vừa đến thị trấn.”
Ba người đàn ông và một phụ nữ đã đến. Catarino nghĩ rằng có lẽ những người khác đến sau, rồi anh cố sửa cái máy hát. Vì không sửa được, anh nhờ Pancho Aparecido, người biết làm mọi thứ vì anh ta chẳng sở hữu thứ gì, và thêm vào đó, anh ta có một cái hộp đồ nghề cộng với một đôi tay khéo léo.
Quán của Catarino là một căn nhà bằng gỗ dựng riêng ra và đối mặt với biển. Có một căn phòng lớn với những ghế tựa, bàn nhỏ và nhiều phòng ngủ ở phía sau. Trong khi họ xem Pancho Aparecido sửa cái máy, ba người đàn ông và người phụ nữ lặng lẽ uống, ngồi ở quầy bar và thay phiên nhau ngáp.
Sau nhiều nỗ lực cuối cùng cái máy hát cũng chạy tốt. Khi mọi người nghe thấy tiếng nhạc, xa nhưng rõ, dân làng ngừng nói chuyện. Họ nhìn nhau rồi trong một khắc không ai nói câu gì, chỉ để nhận ra họ đã già nua cũ kỹ thế nào kể từ lần cuối mình nghe nhạc.
Tobias nhận ra mọi người vẫn còn thức sau chín giờ. Họ đang ngồi trên ghế nghe những bài hát cũ của Catarino như trẻ con ngây ngô sợ hãi lần đầu thấy nhật thực. Mỗi bài hát khiến họ nhớ về một ai đó đã chết, về vị của thức ăn sau một trận ốm dài, hoặc là về việc gì đó họ phải làm vào ngày mai của nhiều năm về trước mà chưa kịp làm cho xong vì quên mất.
Nhạc dừng lúc 11 giờ. Nhiều người đi ngủ, nghe chừng trời sắp mưa, một đám mây đen lững lờ ở trên biển. Nhưng đám mây tản dần, bồng bềnh, rồi chìm nghỉm vào nước. Chỉ còn lại những ngôi sao. Một lát sau, gió mát trở lại đem theo mùi hương của hoa hồng.
“Đúng y như tôi đã nói với lão, Jacob à.” Don Máximo Gómez reo lên. “Nó trở lại với chúng ta rồi. Giờ thì tôi chắc chắn là ta sẽ ngửi thấy nó mỗi đêm.”
“Lạy trời không phải vậy,” Jacob nói “Cái mùi ấy là thứ duy nhất trên đời này đến với tôi quá trễ.”
Họ chơi cờ trong cái cửa hiệu trống hoác, chẳng để ý gì đến những bài hát. Những kỉ niệm của họ quá xưa cũ đến nỗi những bài hát đó chưa đủ để khuấy động chúng trở lại.
“Về phần tôi, tôi không tin gì nhiều vào những điều đó đâu.” Don Máximo Gómez nói “Sau nhiều năm hít bụi, và quá nhiều phụ nữ muốn một mảnh sân nhỏ để trồng hoa, chẳng có gì lạ nếu người ta nên thôi ngửi cái mùi ấy, và thậm chí là thôi nghĩ rằng tất cả là thật.”
“Nhưng ta có thể ngửi thấy nó từ chính mũi của mình.” Jacob nói.
“Thì sao chứ,” Don Máximo Gómez nói “Trong trận chiến đó, khi cuộc cách mạng đã mất, chúng tôi đã mong mỏi có một vị tướng quá nhiều đến nỗi chúng tôi thấy công tước xứ Malborough[iii] xuất hiện, bằng xương bằng thịt, chính mắt tôi đã thấy ông ta, Jacob à.”
Nửa đêm, khi chỉ còn lại một mình, Jacob đóng cửa hiệu và đem cây đèn vào phòng ngủ. Qua cửa sổ, nổi bật lên giữa những quầng hồng của biển, lão thấy cái vách đá nơi những xác chết được thả trôi.
                   

“Petra,” lão gọi giọng thều thào.
Bà không thể nghe thấy lão. Lúc đó, bà trôi bập bềnh trên mặt nước dưới ánh mặt trời giữa trưa nắng chói chang trên vịnh Bengal. Bà ấy nâng đầu mình lên để nhìn xuyên qua nước, như thể xuyên qua một cái tủ kính được chiếu sáng. Nhưng bà không thể thấy chồng bà, người mà lúc đó, ở bên kia thế giới, bắt đầu nghe lại những bản nhạc của Catarino.
“Chợt ngẫm,” Jacob nói “Mới cách đây sáu tháng, người ta nghĩ là bà bị điên, còn bây giờ họ đang ăn mừng ngoài kia vì cái mùi hương đã đem bà đến với cái chết.”
“Tôi sẽ đi khỏi thị trấn này nếu tôi có thể,” lão vừa nói, vừa hục hặc khóc.
“Tôi sẽ đi thẳng đến thiên đường hoặc bất cứ đâu, chỉ cần tôi có hai mươi pê-sô.”
Kể từ cái đêm đó, trong nhiều tuần, mùi vẫn ở trên biển. Nó thấm vào gỗ trong nhà, thức ăn, nước uống và không có chỗ nào mà không ngửi thấy cái mùi đó. Nhiều người còn giật mình vì nghe thấy mùi đó từ chính phân của họ. Những người đàn ông và phụ nữ đã đến với quê hương của Catarino rời đi vào một ngày thứ sáu, nhưng họ trở lại vào thứ bảy với cả một đám đông. Và đông hơn nữa vào chủ nhật. Họ đi vào đi ra khắp mọi nơi như những con kiến, tìm cái gì đó để ăn và chỗ để ngủ cho đến khi không còn sức để đi bộ nữa.
Thêm người đến. Những người phụ nữ đã từng bỏ đi khi thị trấn trở nên chết chóc giờ trở lại quán của Catarino. Họ trông phốp pháp hơn và trang điểm lòe loẹt hơn, và họ mang về những bài hát mới nhất, thứ mà chẳng gợi cho bất cứ ai nhớ về cái gì cả. Một vài trong số những cư dân trước đây cũng trở lại. Họ bỏ đi để được giàu có ở đâu đó, rồi họ trở lại và kể lể về sự may mắn của mình nhưng lại mặc đúng những bộ đồ đã theo họ lúc ra đi. Rồi thì nhạc và những trò ăn theo – chiếc nón kỳ diệu, bói toán, phi tiêu, và người đàn ông có rắn quấn quanh cổ bán thuốc trường sinh. Họ đến liên tục suốt mấy tuần, thậm chí sau khi cơn mưa đầu tiên ập đến, biển ầm ì trở lại mùi biến mất.
                  

Một vị linh mục đến vào những ngày cuối. Ông ta đi khắp nơi, ăn bánh mỳ chấm cà-phê trắng, rồi lần hồi, ông ta cấm đoán mọi thứ đã đến thị trấn trước mình – trò chiếc nón kỳ diệu, tân nhạc, và cách người ta nhảy múa, thậm chí cả thói quen mới gần đây là ngủ trên bờ biển. Một buổi tối, ở nhà của Melchor, ông giảng một bài thánh kinh về mùi của biển.
“Hãy biết ơn Chúa Trời, những đứa con của ta,” ông nói, “vì đây là mùi của Chúa.”
Ai đó xen vào, “Làm sao Cha biết, Ngài đã ngửi thấy nó chưa?”
“Kinh thánh đã nói quá rõ về điều này”, ông nói “Chúng ta đang sống trong ngôi làng được lựa chọn.”
Tobias đi tới lui ở hội chợ như một người vừa đi vừa ngủ gật. Anh dẫn Clotilde đến cho biết tiền là thế nào. Họ tự thuyết phục rằng mình đang đánh cược lớn vào trò chiếc nón kỳ diệu, rồi họ sẽ đếm số tiền thắng được và sẽ cảm thấy cực kỳ giàu có. Nhưng một đêm nọ, chẳng riêng gì họ mà cả đám đông trú ngụ trong thị trấn này thấy chưa bao giờ lại có nhiều tiền tập trung một chỗ đến vậy.
Đó là cái đêm ngài Herbert đến. Ông ta xuất hiện bất thình lình, đặt một cái bàn ở giữa đường, rồi đặt lên trên hai rương lớn chất đầy tiền giấy. Có quá nhiều tiền đến nỗi không ai để ý đến vì họ không tin. Nhưng khi ông Herbert bắt đầu rung cái chuông nhỏ thì người ta phải tin và họ dồn lại nghe.
“Tôi là người giàu nhất trên thế giới.” Ông ta nói. “Tôi có quá nhiều tiền đến nỗi không có đủ chỗ để cất giữ chúng nữa. Thêm vài đó, trái tim tôi cũng quá lớn để nhét đủ vào lồng ngực mình, vì vậy tôi quyết định đi vòng quanh thế giới và giải quyết những vấn đề của loài người.”
Ông ta cao ráo và hồng hào. Ông ta nói sang sảng, không ngập ngừng, và vẫy vẫy đôi bàn tay nhẵn thín. Ông ta nói trong vòng 15 phút. Nghỉ một chút, rồi ông ta lại rung cái chuông nhỏ, rồi lại nói. Giữa chừng bài phát biểu, ai đó trong đám đông huơ mũ lên và cắt ngang.
“Thôi nào, thưa ngài. Đừng nhiều lời nữa. Hãy phân phát tiền đi”
“Không nhanh vậy đâu.” Ngài Herbert trả lời. “Phân phát tiền bừa bãi, với lại đó cũng không phải là cách làm mọi việc một cách công bằng, sẽ chẳng có nghĩa lý gì cả.”
Ông ta thấy người đàn ông đã xen ngang và bảo anh ta tiến lên phía trước. Đám đông né ra tránh đường.
“Một mặt khác,” Ngài Herbert tiếp tục, “người bạn thiếu kiên nhẫn này của chúng ta sẽ cho chúng ta một cơ hội để chứng tỏ hệ thống phân phối của cải công bằng nhất”. Ông với tay ra và đỡ anh kia lên.
“Tên anh là gì?”
“Patricio.”
“Tốt rồi, Patricio.” Ngài Herbert nói. “Giống như tất cả mọi người, anh có vấn đề mà trong một lúc anh không thể giải quyết nổi.”
Patricio cởi mũ ra và gật đầu đồng tình.
“Vấn đề là gì?”
“Ồ, vấn đề của tôi là thế này,” Patricio nói “Tôi không có đồng nào cả.”
“Anh cần bao nhiêu?”
“48 pê-sô.”
Ngài Herbert hét lên vui sướng. “48 pê-sô”, ông lặp lại. Ông ta vỗ tay và đám đông vỗ theo.
“Rất tốt, Patricio.” Ngài Herbert tiếp, “Bây giờ, kể với chúng tôi: anh bạn có thể làm gì?”
“Nhiều thứ.”
“Quyết định một cái thôi, thứ gì mà anh làm tốt nhất ấy.”
“Ồ, tôi có thể bắt chước tiếng chim.”
Vỗ tay lần nữa, ngài Herbert hướng về phía đám đông.
“Vậy thì, bây giờ, thưa quý ông quý bà, anh bạn Patricio của chúng ta, người có tài bắt chước tiếng chim sẽ bắt chước tiếng của 48 con chim khác nhau và bằng cách đó, anh ta sẽ giải quyết được vấn đề to lớn của cuộc đời mình.” Trong khi đám đông đứng nín thinh, Patricio bắt đầu giả tiếng chim. Lúc thì huýt sáo, lúc thì dùng cổ họng, anh ta bắt chước tiếng của tất cả những loài chim từng được biết và kết thúc bằng tiếng của những loài chim mà không ai xác định được là loài gì. Khi anh ta xong, ngài Herbert xướng lên một tràng pháo tay và đưa cho anh ta 48 pê-sô.
“Và bây giờ,” ông ta nói “hãy lên đây từng người một. Tôi sẽ ở đây cho đến giờ này ngày mai, để giải quyết vấn đề của các vị.”
Lão Jacob biết đến vụ ầm ĩ đó qua cuộc nói chuyện của những người qua đường. Cứ khi nghe được tin tức gì mới, thì tim lão lại đập thình thịch, cho đến khi cảm thấy nó muốn vỡ tung đến nơi.
“Anh nghĩ thế nào về tên ngoại quốc đó hả?” lão hỏi Don Máximo Gómez.
Don Máximo nhún vai, “Ông ta chắc hẳn là một nhà từ thiện.”
“Giá mà tôi biết làm cái gì đó,” Jacob nói, “thì tôi có thể giải quyết được vấn đề của mình rồi, đâu nhiều nhặn gì, chỉ 20 pê-sô.”
“Lão chơi cờ giỏi còn gì.” Don Máximo Gómez nói.
Jacob vờ như không để ý gì đến lời của Don, nhưng khi còn lại một mình, lão gói ghém bàn cờ và hộp các quân cờ vào tờ báo, và đi thách thức ngài Herbert. Đến nửa đêm, lão Jacob vẫn chờ đến lượt mình. Cuối cùng, ngài Herbert cho người gói ghém các rương tiền của ông ta lại và chào tạm biệt, hẹn gặp những người đang chờ đến lượt vào sáng hôm sau.
Ông ta không đi ngủ. Ông ta xuất hiện ở quán của Catarino cùng với người vác rương, và đám đông theo sau với những trăn trở của họ. Dần dà, ông tiếp tục giải quyết các sự vụ cho nhiều người, đến nỗi trong những người còn lại chỉ có phụ nữ và một vài người đàn ông đã được thỏa mãn. Phía sau căn phòng, có một người phụ nữ lẻ loi đang chậm rãi quạt bằng một tấm bảng quảng cáo.
“Còn cô thì sao?” Ngài Herbert hét to “Vấn đề của cô là gì?”
Người phụ nữ ngừng quạt. “Đừng có kéo tôi vào trò hề của ngài, Ngài ngoại quốc ạ!” cô ta nói vẳng qua căn phòng. “Tôi chả có vấn đề gì cả, và tôi là một con điếm chỉ vì mông của tôi cong thôi!”.
Ngài Herbert nhún vai, tiếp tục uống bia lạnh bên cạnh cái rương để mở và chờ các sự vụ tiếp theo. Một lát sau, một người phụ nữ tách khỏi nhóm ở bàn của mình và nói nhỏ với Herbert. Cô ta có vấn đề 500 pê-sô.
“Làm sao cô phân thân ra được từng ấy?” Ngài Herbert hỏi.
“Thành 5 ư?”
“Đừng có mơ!” Herbert nói “Một trăm người đàn ông.”
“Không vấn đề gì?” Cô ta nói “Nếu tôi có thể có tất cả số tiền đó cùng lúc, họ sẽ là một trăm người đàn ông cuối cùng của đời tôi.”
Ông ta nhìn cô một lượt. Đó là một cô gái trẻ, trông yếu đuối nhưng ánh mắt đầy quyết đoán.
“Được thôi.” Ngài Herbert nói. “Hãy về phòng của cô đi và tôi sẽ bắt đầu gửi cho mỗi người 5 pê-sô vào trong cho cô.” Rồi ông ta đi ra đường và rung cái chuông nhỏ.
Lúc bảy giờ sáng, Tobias thấy chỗ Catarino mở cửa. Tất cả đèn sáng hắt ra ngoài. Một nửa ngủ gật và sặc sụa bia, Herbert đang hướng dẫn những người đàn ông ở lối vào phòng cô gái.
Tobias cũng vào. Cô gái nhận ra anh và rất ngạc nhiên khi thấy anh ở trong phòng mình.
“Anh mà cũng vào sao?”
“Họ bảo tôi vào” Tobias nói, “Họ đưa cho tôi 5 pê-sô và bảo tôi đừng ở quá lâu.”
Cô kéo tấm trải ướt chẹp nhẹp ra khỏi giường và bảo Tobias giữ một đầu. Nó nặng như một tấm vải bạt. Họ vắt và vặn xoắn nó từ mỗi đầu cho đến khi nó nhẹ trở lại như bình thường. Họ lật tấm ra lại nhưng mồ hôi đã thấm sang cả mặt bên kia. Tobias làm tốt nhất những gì có thể. Trước khi rời đi, anh để 5 pê-sô lên chồng cao những hóa đơn ở bên giường.
“Hãy đưa bất cứ ai đến đây mà anh có thể.” Ông Herbert đề nghị “Để xem chúng ta có thể xong được trước buổi trưa không.”
Cô gái mở sầm cửa và gọi một cốc bia lạnh. Vẫn còn nhiều người đàn ông đang đợi.
“Còn bao nhiêu người nữa?” Cô ta hỏi.
“Sáu mươi ba.” Herbert trả lời.
Lão Jacob theo chân Herbert cả ngày cùng với cái bàn cờ của lão. Đến lượt của lão thì trời cũng vừa sụp tối, lão bày tỏ nguyện vọng của mình và ngài Herbert đồng ý. Họ đặt hai cái ghế và một cái bàn nhỏ ở trên cái bàn lớn ở giữa đường, và lão Jacob đi nước đầu tiên. Đó cũng là lần cuối cùng lão được đi trước. Lão đã thua.
“Bốn mươi pê-sô” ngài Herbert nói, “và tôi sẽ chấp ngài hai nước.”
Ông ta lại thắng. Bàn tay ông ta chả mấy khi chạm vào quân cờ. Ông ta chơi biến hóa khôn lường, đoán trước đường đi nước bước của đối thủ, và vẫn thắng. Đám đông xem chán phát ngấy. Khi lão Jacob quyết định đầu hàng, thì tổng số tiền lão mắc nợ lên đến 5,742 pê-sô và 23 xen. Lão không hề biến sắc. Lão viết con số xuống mẩu giấy ở trong túi. Rồi lão gấp bàn cờ, xếp những con cờ vào hộp, rồi gói ghém chúng lại vào tờ báo. “Ngài muốn làm gì tôi thì làm”, lão nói “nhưng để tôi nói điều này, tôi hứa với ngài tôi sẽ dành hết phần đời còn lại của mình để lấy tất cả số tiền đó lại.”
Herbert nhìn đồng hồ. “Tôi thật sự rất tiếc.” ông ta nói “Thời gian của lão sẽ hết trong vòng hai mươi phút nữa.” Ông ta chờ đến khi chắc chắn rằng đối thủ không còn cách nào khác. “Lão còn thứ gì để cho đi không?”
“Danh dự của tôi.”
“Ý tôi là,” Herbert giải thích, “thứ gì đó đổi màu khi chổi quét sơn lướt qua nó.”
“Nhà của tôi.” Lão Jacob nói như thể đã giải được câu đố vậy. “Nó chẳng đáng giá là bao, nhưng nó là một ngôi nhà.”
Đó là cách ngài Herbert tước đi nhà của lão Jacob. Ông ta cũng lấy nhà và tài sản của những người không thể trả được nợ, nhưng ông ta đã tổ chức một tuần lễ với âm nhạc, pháo hoa, những anh hề, và chính ông ta chứ không ai khác bày ra những trò lễ hội.
Đó là một tuần đáng nhớ. Herbert hùng biện về định mệnh diệu kỳ của thị trấn, ông ta thậm chí phác họa thành phố của tương lai với những tòa nhà bằng kính cao vợi, và các sàn nhảy ở tầng trên cùng. Ông ta chỉ cho người ta thấy những bức vẽ. Họ nhìn vào đầy kinh ngạc, cố gắng tìm thấy chính mình trong số những người bộ hành được sơn vẽ bằng màu của Herbert, nhưng những con người trong bức tranh ấy ăn mặc sang trọng quá đến nỗi không ai có thể nhận ra chính mình trong đó cả. Cảm xúc khiến trái tim họ đau quặn. Họ cười vào niềm mong ước xưa cũ là được khóc, thứ khiến họ đau khổ nhớ về hồi tháng Mười, và mỗi ngày họ sống trong hi vọng, cho đến khi ông Herbert rung cái chuông nhỏ lên và nói rằng bữa tiệc đã kết thúc. Lúc đó, ông ta mới dừng lại.
“Mày sẽ chết vì chính cái cách mà mày đã sống.” lão Jacob nói.
“Tôi có quá nhiều tiền đến nỗi chẳng có lí do gì mà tôi phải chết cả.” Herbert nói.
Ông ta buông mình trên giường trong nhà của lão Jacob. Ông ta ngủ ngày này qua ngày khác, ngáy như một con sư tử, và lâu đến nỗi người ta phát mệt mỏi vì phải chờ đợi. Họ phải đào những con cua để ăn. Những bản thu mới của Catarino bỗng trở nên cũ kỹ đến nỗi không ai nghe chúng mà không rơi nước mắt, và anh ta phải đóng cửa cái quán.
Khá lâu sau khi Herbert ngủ thiếp đi, vị linh mục gõ cửa nhà lão Jacob. Cửa khóa trái bên trong. Hơi thở của Herbert ngốn hết cả không khí, mọi thứ như mất trọng lực và trôi lềnh bềnh.
                       

“Tôi muốn nói một lời với anh ta.” Vị linh mục nói.
“Cha sẽ phải đợi.” Jacob mở cửa, nói.
“Ta không có nhiều thời gian.”
“Cha ngồi đi, và hãy đợi,” Jacob nhắc lại “và trong khi đó hãy nói chuyện với tôi. Tôi không hiểu nối chuyện gì đang xảy ra trên trái đất này nữa.”
“Người ta đang tán loạn khắp nơi.” Vị linh mục nói. “Sẽ không lâu nữa mọi thứ sẽ trở về y như nó trước đây. Đó là thứ duy nhất mới mẻ.”
“Họ sẽ trở về khi biển lại tỏa ra mùi hương của hoa hồng.” Jacob nói.
“Nhưng, trong khi đó, chúng ta phải có cái gì đó để giữ lấy niềm tin của những người ở lại.” linh mục nói “Phải khẩn thiết xây dựng nhà thờ.”
“Đó là lí do vì sao cha đến gặp Herbert.” Jacob nói.
“Đúng vậy,” vị linh mục nói “Những người ngoại quốc rất hào hiệp.”
“Vậy cha đợi chút”, Jacob nói “Có lẽ ông ta chỉ vừa thức giấc.”
Họ chơi cờ. Đó là một ván cờ rất dài, rất hóc búa, kéo dài nhiều ngày, nhưng Herbert vẫn chưa tỉnh dậy.
Vị linh mục để mặc cho mình bối rối vì thất vọng. Ông ta đi khắp thị trấn với một cái đĩa bằng đồng, xin quyên góp để xây nhà thờ, nhưng chẳng được là bao. Ông ta trở nên queo quắt vì phải lê lêt đi xin quá nhiều, những khúc xương bắt đầu khụm xuống và rúc rắc, rồi một chủ nhật nọ, ông ta với hai tay lên từ mặt đất, nhưng không ai để ý đến. Ông gói ghém quần áo vào túi, còn tiền thì để vào cái túi còn lại và nói lời từ biệt vĩnh viễn. “Mùi hương đó sẽ không trở lại đâu.” Ông ta nói vậy với những người cố vực ông ta dậy. “Các ngươi phải đối mặt với sự thật rằng thị trấn này đã vướng vào tội chết.”
Khi ngài Herbert thức dậy, thị trấn trông giống như nó đã từng trước đó. Trận mưa đã lên men đống rác mà đám đông bỏ lại trên những con đường, đất cằn cỗi hơn và cứng như gạch.
“Ta đã ngủ thiếp đi khá lâu.” Ngài Herbert nói, ngáp.
“Hàng mấy thế kỷ.” lão Jacob nói.
“Ta chết đói mất.”
“Mọi người cũng vậy.” lão Jacob nói “Không có gì để làm ngoài việc đi ra biển và đào cua để ăn."
Tobias thấy ngài Herbert cào cua trên cát rồi tọng vào họng, và anh ngạc nhiên nhận ra là người giàu mà đói thì trông cũng giống người nghèo. Ngài Herbert không kiếm đủ cua. Khi trời sụp tối, ngài rủ Tobias đi kiếm cái gì đó ăn ở sâu dưới biển.
“Nghe này.” Tobias cảnh báo, “chỉ có người chết mới biết cái gì ở dưới đó thôi.”
“Các nhà khoa học cũng biết,” ngài Herbert nói, “Sâu dưới đó là những con rùa với thịt ngon tuyệt đỉnh. Cởi quần áo ra và chúng ta hãy đi.”
Rồi họ đi. Lúc đầu, họ bơi thẳng ra biển, sau đó xuống rất sâu, nơi mà ánh sáng mặt trời, rồi ánh sáng của biển không chạm tới nữa và mọi vật chỉ thấy được do ánh sáng của chính chúng. Họ đi ngang qua một ngôi làng ở sâu dưới lòng biển, đàn ông và phụ nữ trên lưng ngựa cưỡi đi vòng tròn. Đó là một ngày đẹp tuyệt dịu, những bông hoa rực rỡ ở quanh bờ rào.
“Ở đây chỉ đến mười một giờ sáng là ngày chủ nhật trở nên tiu nghỉu”. Ngài Herbert nói “Chắc hẳn đã có một tai họa khủng khiếp xảy ra.”
Tobias chuyển hướng định trở về ngôi làng, nhưng ngài Herbert ra hiệu anh tiếp tục lặn sâu xuống.
“Có những bông hồng ở đó.” Tobias nói “Tôi muốn Clotilde biết chúng trông như thế nào.”
“Anh có thể trở lại vào lúc khác khi rãnh rỗi.” Ngài Herbert nói “Còn ngay bây giờ tôi đang chết vì đói đây.”
Ông ta lặn xuống như một con bạch tuộc, những sải tay chậm rãi và êm ái. Tobias, cố không bị tụt lại, nghĩ đó chắc hẳn là cách mà một người giàu bơi. Dần dần, họ đi xa khỏi vùng biển của những tai ương thường nhật, đi vào vùng biển của người chết.
Nhiều người quá, Tobias nghĩ anh chưa bao giờ thấy có nhiều người đến vậy trên đời này. Họ nổi lềnh bềnh bất động, mặt ngửa lên, ở những mức độ khác nhau, và tất cả đều có cái nhìn của những tâm hồn bị lãng quên.
“Họ là những xác chết rất xưa cũ.” Ngài Herbert nói “Phải mất hàng thế kỷ để họ đi đến trạng thái siêu thoát.”
Xa hơn xuống phía dưới, nơi của những xác chết còn mới, ngài Herbert dừng lại. Tobias đuổi kịp ông ngay lúc một phụ nữ trẻ ngang qua trước mặt họ. Cô ta đang nổi lên từ một bên, mắt mở to và một làn hoa trôi theo sau.
Herbert há hốc mồm và cứ như thế cho đến khi những bông hoa cuối cùng trôi qua. “Cô ấy là người phụ nữ đẹp nhất mà tôi từng thấy trong đời mình.” Ông ta nói.
“Đó là vợ của lão Jacob.” Tobias nói “Bà ấy chắc hẳn là đang trẻ hơn năm mươi tuổi so với lúc bà ấy chết, nhưng đúng là bà ấy. Tôi chắc chắn.”
“Cô ấy đã đi rất nhiều.” Ngài Herbert nói. “Cô ấy mang theo mình hoa từ khắp các vùng biển trên trái đất.”
Họ chạm tới đáy. Herbert lật lên những khối đất trông như đá phiến mài. Tobias làm theo. Cho đến khi anh quen với thứ ánh sáng nửa vời của những tầng nước sâu thì anh mới phát hiện ra những con rùa ở đó. Có đến hàng nghìn con nằm xếp hàng bất động trông rất sợ hãi.
                     

“Chúng còn sống đó”. Ngài Herbert nói, “Nhưng chúng đã ngủ cả triệu năm rồi.”
Ông ta lật một con lại, rồi chạm nhẹ để đẩy nó lên, con vật đang ngủ né tay ông ta và tiếp tục bơi lên phía trên. Tobias để nó tuột mất. Rồi anh nhìn lên phía mặt nước và thấy cả vùng biển bên trên.
“Nó giống như một giấc mơ vậy.” Anh nói.
“Vì chính anh, đừng kể ai biết chuyện này,” Herbert nói. “chỉ cần nghĩ đến việc là thế giới này sẽ hỗn loạn thế nào nếu người ta biết những điều này.”
Đã là nửa đêm khi họ trở lại ngôi làng. Họ thức Clotilde dậy và bảo cô đun một ít nước. Ngài Herbert làm thịt con rùa, nhưng nó khiến cả ba người phải đuổi theo và làm chết quả tim khi nó nhảy ra sân trong khi họ đang cắt con vật. Rồi họ ăn cho đến khi không thở nổi nữa.
“Này, Tobias.” Herbert nói “Chúng ta phải đối diện với sự thật thôi.”
“Hẳn rồi.”
“Và sự thật nói rằng,” Herbert tiếp, “cái mùi đó sẽ không trở lại nữa.”
“Nó sẽ trở lại.”
“Nó sẽ không trở lại,” Clotilde thêm vào “trong số những lí do khác thì có một lí do là nó chưa bao giờ thực sự đến. Chính anh đã thức mọi người dậy.”
“Chính em đã ngửi thấy mùi đó còn gì.” Tobias nói.
“Đêm hôm đó em đã nửa tỉnh nửa mơ rồi,” Clotilde nói, “Nhưng ngay lúc này em không chắc về bất cứ điều gì có thể làm với vùng biển này.”
“Vì vậy, tôi sẽ tiếp tục con đường của mình,” Ngài Herbert nói, “Và các bạn cũng nên đi thôi.” Ông ta thêm vào, nói với cả hai. “Có quá nhiều thứ để làm trên đời thay vì chết đói ở cái thị trấn này.”
Rồi ông ta ra đi. Tobias ở lại trong sân, đếm những ngôi sao về phía chân trời và anh khám phá ra rằng có nhiều hơn ba ngôi sao so với hồi tháng Mười hai vừa rồi. Clotilde gọi anh từ giường ngủ nhưng anh không để ý.
“Hãy lại đây, chàng ngốc.” Clotilde khăng khăng. “Đến cả mấy năm rồi kể tư khi ta làm chuyện đó như những con thỏ.”
Tobias đợi chờ một lúc lâu. Rút cuộc khi anh vào nhà, cô đã ngủ thiếp đi. Anh thức cô dậy nửa chừng, nhưng vì quá mệt họ quấn lấy nhau và chỉ làm việc đó như những con giun đất.
“Anh cư xử như một tên ngốc vậy.” Clotilde càu nhàu “Cố nghĩ cái gì đó khác đi.”
“Anh đang nghĩ về cái gì đó khác đây.”
Cô muốn biết nó là gì và anh quyết định kể cho cô nghe, với điều kiện là cô không được kể nó lại, Clotilde hứa.
“Có một ngôi làng dưới đáy biển” Tobias nói “với những ngôi nhà trắng có hàng triệu bông hoa ở hàng rào.”
Clotilde đưa tay lên đầu và kêu lên “Ôi, Tobias! Vì tình thương của Chúa, đừng có bắt đầu với những thứ đó nữa.”
Tobias không nói gì. Anh lăn ra phía cạnh giường và cố ngủ. Anh không thể ngủ được cho đến tận bình minh, khi cơn gió đổi khác và những con cua để anh được yên.
Được dịch bởi tác giả blog, hình minh họa đã được sự đồng ý của tác giả - họa sỹ Nicolae Negura.

Chú thích của người dịch:
[i] Một loại khoáng chất có nhiều ở vùng Nam Mỹ có gốc nitrat (-NO3) được khai thác để dùng trong công nghiệp sản xuất phân bón, chất bảo quản thực phẩm, bom hơi, vật liệu tự hủy, thủy tinh…
[ii] Tên một vị thánh trong kinh Cựu Ước và Tân Ước, truyền đạt thông điệp của chúa Trời thông qua các sứ giả
[iii] John Churchill, công tước Marlborough thứ nhất (1650-1722) được xem là một trong những nhà chỉ huy quân sự tài ba nhất trong lịch sử châu Âu.


1 nhận xét:

  1. Bài này luôn bị lỗi font, lỗi dòng mà mình không cách gì chỉnh sửa được, tất cả là do việc mình chèn ảnh vào bài, khó chịu thật.

    Trả lờiXóa