Một buổi trưa oi ả và nắng chang chang, đúng kiểu nắng Sài Gòn, Ngọc quyết định đi du lịch ngẫu hứng bằng xe buýt, thích dừng đâu thì dừng, thích đi bộ vào những hang hẻm nào của Sài Gòn thì cứ đi, không mục đích cụ thể, nhưng có mục đích tổng quan (nhưng mà dài dòng quá, nên khỏi nói luôn vậy).
Trạm dừng đầu tiên là ngay ngã tư Nguyễn Đình Chiểu với Cách Mạng Tháng Tám, vì ở đó nó thấy một tượng đài đẹp lắm, nhưng chưa bao giờ có thể dừng lại nếu đi bằng xe máy, hễ cứ đi xe máy là người ta lại chạy ù ù vèo vèo, đến những nơi theo mục đích đã định, hoặc nếu đi chơi thì người ta cũng phải tìm những chỗ mà chắc chắn có gì đó hay ho. Một chút sự tò mò nho nhỏ về cái gì vừa xây xong thực sự là không đủ sức khiến người ta phải dừng xe lại. Và Ngọc đoán chắc, khi nó lang thang ở chỗ cái tượng đài đó, những người xe máy dừng đèn đỏ ở mấy phía của ngã tư cũng đang liếc về nó với cái vẻ thèm thuồng là ở đó có gì hay, hoặc đại để là tượng ông nào mới xây ở đó đấy nhỉ, nhưng họ chẳng bao giờ đủ sức vượt ra khỏi những níu kéo đời thường để dừng xe lại và xem cho bằng được cái gì ở đó và nó thích thú với ý nghĩ đó. Ra đây là tượng của ngài Thích Quảng Đức, chính ngã tư này là nơi ngài đã tự thiêu mình để đấu tranh vì sự tự do của Phật giáo dưới sự đè nén của chính quyền Ngô Đình Diệm, sen trồng ở quanh tượng ngài đẹp lắm, còn có điển tích về Phật thích ca nữa.
Rồi nó đi bộ lang thang sang những hẻm của Sài Gòn, hẻm ngang hẻm dọc, hẻm rộng và hẹp, nó ghé cửa hàng này, cửa hàng kia, với vẻ tự tin và chuyên nghiệp và tất nhiên nó chẳng mua gì cả như thể có lòng tin sắt đá rằng, hạnh phúc không cần đến tiền. Và nó vui thích mỗi khi nhận ra ai trong số những người bán hàng là người đang làm việc với tất cả niềm đam mê. Một phần rất chính yếu, rất điển hình trong cuộc sống Sài Gòn chính ở những con hẻm. Đi qua những đoạn hẻm chợ mà vào buổi tối là chùm quán nhậu nhộn nhịp, nó chỉ toàn tưởng tượng sự kinh hãi của công nghệ chế biến thực phẩm Sài Gòn, với đủ thứ nguồn gốc không rõ ràng, và đủ thứ vị ướp làm cho người ta quên mất đặt câu hỏi mình đang ăn gì. Cứ như thế, nó say sưa ngắm nghía, và tự đánh giá bằng cảm nhận chủ quan, lúc vui, lúc buồn, lúc hào hứng, lúc ngán ngẩm. Cho đến khi cơn đói bắt đầu báo tín hiệu về não. Nó mơ đến một quán chè chuối ven đường Điện Biên Phủ, nó thích chè chuối nhất trong các loại chè, và cũng chỉ thích chè truyền thống, nó luôn ăn với một vẻ gượng gạo khi phải nhai loại thạch không rõ quy trình trong những ly chè thái hay chè mỹ.
Tạm chịu đựng cơn đói, Ngọc tiếp tục đi. Và nhận ra muốn biết nhiều quán cafe đẹp và hay ở Sài Gòn thì phải đi vào những con hẻm, chắc chắn là như thế, cafe ở hẻm Sài Gòn nhiều vô kể, và nếu đã là cafe đẹp/ ấn tượng thì cho dù đã có nhiều cafe cách mấy, có vẻ những quán này cũng chẳng ế, bởi đời sống tấp nập của Sài Gòn con người ta cần lắm một không gian nhẹ nhàng thư thái, để tạm quên mọi lo nghĩ thường ngày, được uống một cốc sinh tố mát lành trong tiếng nhạc du dương dù giá có đắt đỏ mấy thì cũng coi như là tự thưởng cho mình vào một chiều cuối tuần, kiếm nhiều tiền rồi để làm gì chứ... Cơn đói và mệt cộng với cái tên hấp dẫn "De Javu" của quán cafe ấy khiến Ngọc bước vào quán. Nơi đây một không gian xanh mát của cây dây leo, cây bụi trồng ven tường, của mái che, và trắng hiền hòa của những bộ bàn ghế gỗ, không có gì quá đặc biệt nhưng đủ làm người ta thích bởi cảm giác thoải mái, nhẹ nhàng. Ngọc thích những khoảng sân gạch bên ngoài nhà, nó gợi nhớ về cái sân nhỏ, thường gọi là "đường luồng" không dùng để xây hết nhà mà dùng làm lối đi thứ 2 để khách đi thẳng đến phòng ăn của nhà Ngọc ở Gia Lai, những buổi chiều khi nắng đã mát, ngày nó còn bé tý mấy bà cháu vẫn hay trải chiếu ra khoảnh sân ấy bày trò chơi. Ngọc cũng yêu thiên nhiên nữa, yêu tất cả những gì thuộc về tự nhiên. Đôi lúc khi nói về điều này, nó lại nhớ đến Trọng, Trọng hay bắt bẻ đùa rằng, bản thân cậu cũng đâu phải là sản phẩm của tự nhiên, là của con người đấy chứ, thì Ngọc vẫn cười và vẫn nghĩ rằng mình cũng là một phần rất "tự nhiên". Âm nhạc cũng phải nói đến như một yếu tố cực kỳ quan trọng đối với sự thành công của quán cafe, cái gu âm nhạc của người chọn nhạc cho quán phản ánh toàn bộ mỹ quan của người đó, và cả mức độ thâm trầm tinh tế của người đó, việc chọn nhạc sai có thể hoàn toàn dẫn đến thất bại trong ấn tượng của khách đối với một quán cafe dù đẹp đến mấy. Vừa nghe nhạc, Ngọc liếc nhìn những người pha chế đằng sau quầy đồ uống, và Ngọc nghĩ mình có thể phân biệt những người pha chế chân chính với những người bỏ hóa chất vào cafe chỉ bằng cách nhìn cung cách của họ.
Rồi như thế, cơn đói được khỏa lấp bởi một ly kem sữa đậu đỏ mà Ngọc chắc chắn là lần sau đến quán nó cũng chỉ uống loại thức uống đó thôi, Ngọc tiếp tục cuộc hành trình của mình. Định giở bản đồ ra xem tuyến đi ngang đường này đi đến đâu, rồi nó vội vàng gập lại, nhắm nghiền mắt, tự phán rằng, chuyến xe buýt tiếp theo qua trước mặt dù là bất kỳ tuyến nào cũng sẽ leo lên. Cho đến khi nó biết mình đang trên đường hướng về Quận 6 với một nỗi sợ hãi nho nhỏ. Trên đường cũng thoáng qua một sự nuối tiếc, khi nó định ghé vào thăm nhà một thầy giáo rất thân nhưng xe đi quá trớn trước khi nó quyết định xong, thế rồi thôi, nó hoãn lại đến dịp 20/11 vậy.
Quận 6 đã gây một ấn tượng chả mấy tốt đẹp với nó hồi những ngày đầu làm tín dụng, có một khách hàng ở đó. Ngọc là dân chuyên toán, và làm mọi thứ rất logic, nhưng nó luôn tin vào cái trực giác của mình, vào những cái cảm nhận rất mơ hồ, vào những suy nghĩ đại loại như "trông mặt bắt hình dong" của nó. Và nào giờ nó vẫn chắc mẩm, người nào tâm xấu thì khuôn mặt cũng bộc lộ. Khách hàng ấy đúng là như vậy, vay tiền nhưng mục đích chủ yếu là để chơi hụi thôi, rồi nó đề xuất ngưng cho vay, dù nó mới chỉ là một sinh viên mới ra trường, dù đó là khách hàng vốn đã được cho vay bởi những người đi trước. Nhưng mà không chỉ vậy, cảnh quan, con người, tất cả mọi thứ tạo nên hình ảnh của Quận 6 - gần bến xe Bình Tây, tạo cho nó một cảm giác không an toàn, không hiền lành, không khí ở đấy cứ bẩn thỉu và khô khốc, rất nhiều người Hoa, rất nhiều biển hiệu chữ Hoa. Không biết chính xác là điều gì khiến quận 6 có một bộ mặt như vậy, nhưng cảm giác thì cứ là cảm giác thôi, không phân tích logic được.
Nắng quá khô khốc và bụi bặm và những khuôn mặt không thân thiện khiến Ngọc quyết định bước vào công viên trung tâm Quận 6, để có thể nhìn vô tư lự lên những tán cây, và chờ đợi những suy nghĩ mới có thể vô tình đi lạc vào đầu mình. Nó suýt chạy khi thấy một người điên với bộ mặt hoang dại trong công viên, rồi nó lại an tâm khi thấy những người đi bộ đều để tập thể dục, rồi nó thấy bình yên khi thấy đám trẻ em chơi đùa và những người tập thái cực quyền, ngồi ngắm đám ấy một lát rồi nó hướng về phía bờ hồ, vẫn với hi vọng được nhìn vô tư lự vào những dợn sóng vô định và những tán cây xanh mát. Nó chọn một chỗ ngồi có cả hai thứ ấy, bắt đầu hành trình đi đến sự vô định của mình, cho đến khi có một người bắt chuyện với nó.
Trên cả quãng hành trình ấy, nó đã luôn ao ước có ai đó bắt chuyện, khi thấy nó đi một mình, ngồi uống cafe một mình, đi bus một mình, v.v... nó ao ước được sẻ chia điều nó đang tâm tư khi quyết định một hành trình như thế, dù nó biết là mình không nên quá chú tâm vào những suy nghĩ ấy, cứ để mọi thứ tự nhiên thôi. Thế nên, người ấy bắt chuyện thì nó khấp khởi lắm. Dường như nó chỉ đợi có thế, là có thể nói tất cả những gì nó suy nghĩ.
Đó là một người "ngoại tứ tuần", qua cuộc nói chuyện thì ông ta kể về việc đã làm nghề bánh mỳ từ năm mười mấy tuổi, về chuyến đi làm thuê cho tiệm bánh mỳ ở An Khê, Gia Lai như thế nào, về việc bà chủ nhà đã chết vì gặp ma ra sao, rồi chính ông ta cũng gặp ma, rồi ông ta trở lại Sài Gòn và mở một tiệm bánh mỳ riêng cho đến cách đây 2 năm khi người ta không cho làm bánh mỳ từ lò than nữa. Về phần tôi, thì ông ta ngạc nhiên lắm, vì sao tôi có thể đi xe buýt trong vô định như thế, vì sao tôi lại có những suy nghĩ như ở thế giới khác về đam mê, về công việc thay vì công việc chỉ đơn thuần là kiếm nhiều tiền nhất có thể, và khi thời thế đối với một nghề nào đó thay đổi thì người ta cũng phải chuyển sang cái khác để kiếm sống (hẳn là lão ta đang nghĩ về cái lò bánh mỳ bằng than của mình), còn đam mê thì may ra chỉ có chơi điện tử như đứa con trai lão mới gọi là đam mê. Rồi lão xen vào những câu chuyện ấy, những ý đại loại như là khi nào tiếp tục đi như vậy, cho lão theo với để mở mang, rồi cứ đi và trò chuyện chia sẻ thoải mái thì vui hơn nhiều là yêu đương gì đó, rồi hỏi tôi có người yêu chưa. Ngọc có thể nhận ra bản chất lão từ những phút rất đầu tiên của cuộc trò chuyện, nhưng nó vẫn tỏ ra nhã nhặn và bình tĩnh, để tiếp tục hướng lão đến việc cảm nhận xem là lão có đam mê hay không trong việc làm ra những ổ bánh mỳ ngon, và nhân tiện điều tra xem là cái nghề ấy thì người ta có khi nào bỏ hóa chất vào bánh mỳ không vì Ngọc cũng trùm thích ăn bánh mỳ. Buộc phải trả lời về chuyện là tại sao chưa có người yêu, Ngọc thấy mình khá ngu ngốc khi tiếp tục chia sẻ rằng, nó thấy "xác suất để hai người nào đó có cùng một cảm xúc về nhau tại cùng một thời điểm là rất khó xảy ra nên tình yêu nam nữ là điều rất khó"; và lão ta phản bác hoàn toàn cái suy nghĩ đó, lão ta cho rằng không thể nào khi một người khác giới chạm vào mà bạn lại không cảm thấy thích. Ồ, thì ra tình yêu với lão chỉ đến thế thôi, mà đương nhiên là phải vậy thôi, vậy thì câu chuyện mới logic chứ. Rồi lão ta kể cách đây khá lâu, lão có quen một cô làm nghề lái taxi ở công viên này, rồi người ấy chuyển về quê và mất liên lạc. Lão ta ca ngợi đầy nhiệt tình rằng đó là một cô gái tốt kinh khủng, tốt lắm lắm luôn, chưa bao giờ gặp ai tốt như vậy. Trong Ngọc lóe sáng một tia hi vọng, vì ít ra người ta vẫn còn có tri giác với cái tốt, nên Ngọc hỏi tốt như thế nào với những tưởng tượng về một người phụ nữ luôn quan tâm đến trẻ em, người già, dù là người dưng, luôn nghĩ cho người khác với tấm lòng nhân ái và sự hi sinh như một phản xạ mà cô ta sinh ra đã là như vậy. Ấy thế mà lão ta đang tâm dập tắt ngún cái hi vọng đấy, bằng câu trả lời như thế này: "Mỗi khi cô ấy với chú đi chơi, cô ấy tuyệt đối không bao giờ ăn cái gì, nếu chú mời cô ấy ăn, hoặc nài nỉ cô ấy ăn, thì cô ấy sẽ phản đối kịch liệt, còn nếu chú mời cô ấy uống cafe thì nhất định đấy là quán cafe vỉa hè". Thật đúng là dở khóc, dở cười với lão này. Trời đã về chiều, khi Ngọc bắt đầu dò dẫm đường về bằng xe buýt trên bản đồ thì lão ta đề nghị để lão chở về, vì lão cũng rảnh không làm gì rồi đề nghị xin số điện thoại, thì nó cũng chả còn mấy ngạc nhiên gì về tất cả những xử sự đó của lão nữa.
Chuyến xe buýt trên đường về thật dài, nó đi đúng 1 đường chéo của Sài Gòn, từ miền Tây sang miền Đông. Nó chỉ muốn ngủ thôi, chả thiết hi vọng là có thể trò chuyện với ai đó tử tế trên xe buýt. Nó cố ngủ, cố nhắm nghiền mắt. Nhưng bên tai nó suốt chuyến đi, văng vẳng như xoắn vào óc những tiếng rao vặt, những tiếng quảng cáo thuốc chuột hay cái gì đại loại thế, rồi những lời ê a nài nỉ của những người cơ nhỡ. Nó mặc kệ hết, nó chỉ muốn ngồi im, và nhắm nghiền mắt thôi, cho mau đến nhà.
Nó nhận được một bài học rằng: Cái xấu luôn dễ dàng bộc lộ hơn cái tốt và xã hội này vẫn đang chiến đấu từng ngày với những khái niệm rất cơ bản như cái ăn và tình dục. Nó biết là không nên làm một phép quy nạp không hoàn toàn như vậy, vì nó vẫn tin đâu đó, thậm chí là rất nhiều trong những cái nghèo, có những cái tốt, nhưng trái tim nó còn non nớt lắm, nó nghĩ thôi thà cứ tự quấn mình trong sách vở, trong những ngôn từ khoa học, trong nghệ thuật thuần túy như việc nó tập dancesport mỗi buổi sáng còn hơn là phải chứng kiến những cái xấu quá lộ liễu như vậy để đánh đổi với mục đích ban đầu là "tìm cái mới, bước ra khỏi vùng an toàn".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét